Sau những dòng hiện thực, trĩu nặng lòng trắc ẩn trước kiếp người nô lệ, nhà văn Tô Hoài chuyển ngọn bút bằng câu văn lãng mạn, mộng mơ ấy để mở đầu những phút trỗi dậy của sức sống tuổi trẻ trong tâm hồn Mị – nhân vật chính trong truyện “Vợ chồng A Phủ”. Từ đó, biết bao câu chữ, bao chi tiết, hình ảnh thẩm mỹ cứ nối nhau tuôn chảy, cứ gọi nhau ngân vang. Trong những hình ảnh, chi tiết ấy, có lẽ nhà văn dụng công nhiều nhất khi miêu tả hình ảnh “tiếng sáo đêm xuân” – một trong những chi tiết đặc sắc của thiên truyện ngắn nơi rẻo cao Tây Bắc này.
“…Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi.
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu…”
Trước hết, chi tiết tiếng sáo đêm tình mùa xuân là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo nhằm khám phá, thể hiện vẻ đẹp nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Tiếng sáo mùa xuân vô cùng gần gũi, thân thuộc, là linh hồn của đời sống tinh thần vùng Tây bắc. Nhờ tiếng sáo đêm tình mùa xuân đó mà nhà văn mở được cánh cửa tâm hồn nhân vật Mị đã im ỉm khóa suốt bao nhiêu năm trời. Cứ nhìn cái dáng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, nhìn cái cách kéo lê tấm thân của Mị từ mùa này sang mùa khác, từ năm này sang năm khác làm việc như một cái máy, cứ nhìn cái sự đêm đến “Mị chỉ còn biết thức với lửa”, đêm nào cũng vậy, dù bị A Sử đánh đập hay có người chết ngay ở đó… không có phản ứng gì thì người ta chỉ có thể nghĩ rằng cô sẽ mãi câm lặng như tảng đá cho đến ngày chết rũ xương ở đây thì thôi.
Vậy mà từ khi nghe đầu núi lấp ló có tiếng sáo rủ bạn đi chơi của ai đó, “Mị lại thiết tha bồi hồi”. Tâm hồn Mị bắt gặp tiếng sáo, đã bắt đầu cựa quậy, đã bắt đầu biết cảm nhận, đã xúc động. Tiếng sáo mùa xuân nhẹ nhàng, mỏng tang, vu vơ mà thần diệu tựa làn gió thanh xuân mềm mại ngọt ngào phần phật thổi vào cõi tâm hồn cằn cỗi của Mị. Thổi đến đâu thì hồi sinh sự sống, tình yêu đến đó. Mị “nhẩm thầm bài hát của người thổi sáo”. Mị đang hòa lòng mình vào không khí mùa xuân tuổi trẻ của những cuộc chơi đánh pao, đánh quay. Tiếng sáo mùa xuân đến và đã neo đậu luôn trong lòng Mị, rồi ám ảnh không rời: “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Rồi như một phản ứng dây chuyền, đồng loạt cả một quá khứ của tuổi trẻ hiện về, Mị lại được sống đắm chìm trong thời tuổi trẻ đầy say mê của mình: “… Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo…. bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Người đàn bà tưởng như không còn sợi dây liên hệ nào với cả hiện tại và quá khứ, không thiết nghĩ đến tương lai, nay “lịm mặt”, “sống về ngày trước” với bao nhiêu khát vọng của tình yêu, của tuổi trẻ đầy mãnh liệt, cuộn trào lên trong trái tim đang hồi sinh của người con gái. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình vẫn “lửng lơ bay ngoài đường”, và trong đầu Mị vẫn “rập rờn tiếng sáo”, cô “lấy hũ rượu, uống ừng ực từng bát”. Cảnh Mị uống rượu dưới cây bút Tô Hoài hiện lên vô cùng tinh và chân thực – những biến đổi âm thầm trong tâm hồn người đàn bà câm lặng tưởng như đã nguội tắt sức sống. Cô “uống ực từng bát”: uống như để say, để quên, uống như muốn dùng cái men say nồng nàn của rượu để dìm đi những nuối tiếc, những khát khao và uất ức vừa theo tiếng sáo đêm xuân đột ngột bùng cáy lên trong lòng. Cô uống như thể đang uống cạn hết những cay đắng của những tháng năm im lìm đã qua và uống cả mịt mù của tương lai phía trước.
Tiếng sáo dập dìu thiết tha gọi ai đầu làng mà đánh thức cả một miền hồi ức, kỷ niệm ùa về tươi rói. Rồi tiếng sáo ngày một gần, ngày một da diết hơn; ảo giác của quá khứ mạnh mẽ đến mức gần như xóa nhòa đi bất hạnh của hiện tại: “Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường… Mị thấy phơi phới trở lại…”. Mùa xuân đã thực sự về, xốn xang trong lòng: “Mị vui sướng như những đêm xuân ngày trước. Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi…”. Thế nhưng, cái hiện thực đầy say mê của quá khứ và tiếng sáo gọi bạn yêu kia đã trở thành thái cực tương phản của cảnh sống thực tại. Mị soi xét lại cái hiện thực mà cô đã và đang phải sống, và sẽ không biết đến bao giờ mới có thể thoát ra khỏi tình trạng phi lý của cuộc hôn nhân giữ cô và A Sử “không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Cái thực tế đau đớn mà cô đã từng thờ ơ đến mức không còn tưởng đến cái chết lại khiến tâm lý Mị nảy sinh một sự phản ứng bất ngờ mà thống nhất: Nghĩ đến nắm lá ngón… Nhìn ở góc độ sự sống cho thể xác, đây là một bước lùi, tiêu cực. Nhưng nhìn ở góc độ đời sống tinh thần, đó chính là sự thức tỉnh đầy tính nhân văn:
Thà một phút huy hoàng rồi vụt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Mị thà chết trong một sự khẳng định quyết liệt ý nghĩa đúng đắn cuộc sống của mình còn hơn phải sống kiếp trâu ngựa suốt cả một đời. Mị thà chết để quên hết tất cả những khổ đau tủi nhục của hiện tại. Muốn chết là biểu hiện mãnh liệt nhất, dữ dội nhất của lòng ham sống, lòng khát khao hạnh phúc, niềm khát khao ấy đã gây ra sự xung đột gay gắt với hiện thực vô nghĩa lí. Nhờ tiếng sáo mùa xuân mà Mị đã thoát khỏi tình trạng lầm lũi vô cảm, đã nhận ra rằng mình không thể nào chìm ngập trong nỗi cay đắng, phẫn uất của kiếp sống tủi cực trói buộc linh hồn và tuổi trẻ của cô suốt bao năm qua nữa.
Tuy nhiên, một cô gái mê tiếng sáo, yêu đời như Mị không thể lùi sâu vào mãi góc chết. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình vẫn “lửng lơ bay ngoài đường”, và trong đầu Mị vẫn “rập rờn tiếng sáo” thì làm sao Mị có thể hững hờ? Cái nồng nàn của hơi men và cái đắm say của “tiếng sáo gọi bạn yêu” cứ thôi thúc: “Mị đứng dậy xắn thêm mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng” như để tự thắp sáng đời mình, như để khêu to hơn ngọn lửa tình yêu đang chập chờn trong ý thức của Mị. Hành động này lại tạo ra niềm tin để có hành động tiếp theo mạnh mẽ hơn: Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt trên vách, sửa soạn đi chơi, bất chấp sự có mặt của A Sử – hiện thân trực tiếp và thường trực của cái ác, là hung thần đã nghiền nát tất cả hạnh phúc, sự sống của đời cô. Mị hoàn toàn không hề đếm xỉa đến hiện thực nữa. Lòng mải mê đi theo tiếng sáo, tay cô làm, chân cô bước như kẻ mộng du. Thậm chí cho đến khi đã bị trói bằng cả một thúng dây đay, bằng cả mái tóc dài của chính Mị, thân xác đau đớn cùng cực, thì tiếng sáo vẫn bám riết tâm hồn Mị. Suốt đêm dài… suốt đêm… Mị chỉ còn nghe tiếng sáo… Khi khát vọng tự do, khát vọng tình yêu đã cháy lên thì hiện thực kia làm sao đủ sức ngăn cản được sự bay bổng của tâm hồn?!.
Cũng có lúc tiếng chân ngựa đạp vách kéo Mị về thực tại. “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Con ngựa còn có lúc đứng gãi chân, nhai cỏ, còn…” nhưng “tiếng sáo vẫn đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”… Lúc chừng đã khuya, Mị còn tưởng tượng được cuộc chơi xuân đêm nay đã đến lúc “trai làng đang đến bên vách làm hiệu rủ người yêu dỡ vách rừng chơi. Mị đã nín khóc, Mị lại thiết tha bồi hồi”. Tiếng sáo đã trở thành điểm tựa và Mị đã vững vàng hơn.
Chưa bao giờ là một nhà văn lãng mạn nhưng những dòng này, những trang này, thế giới tâm trạng nhân vật Mị lúc này và toàn bộ chi tiết tiếng sáo đêm tình mùa xuân dẫu thực đến độ điển hình nó vẫn là những trang văn cực kỳ lãng mạn, đẹp đẽ mê ly. Với chi tiết tiếng sáo, không những nhà văn bật mở được thế giới tâm hồn của một nhân vật khổ đau đã nhầu nát, tê dại vì bị giam hãm trong bóng ma và thế lực phong kiến miền núi, đang thức dậy, đang phát triển với những cung bậc tinh tế, phức tạp, tuần tự có, đột phá có, có cả những bước tiến lùi đan xen nhưng đúng quy luật tâm lý mà còn khám phá, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp tài hoa nghệ sỹ của người lao động dân tộc Mèo. Dẫu cho thể xác có bị vùi dập bao nhiêu thì lòng yêu đời, yêu hạnh phúc, yêu tiếng sáo mùa xuân của người người Mèo vẫn không gì có thể dập tắt được. Đó là bức thông điệp quan trọng nhất mà nhà văn gửi được đến bạn đọc qua tác phẩm này. Hơn nữa nó còn hé mở cả một sức mạnh tiềm ẩn, báo hiệu khả năng cách mạng trong nhân vật Mị và con người Tây Bắc.
Tiếng sáo đêm tình mùa xuân thực sự là một chi tiết đầy sức quyến rũ, là nét hoa văn độc đáo nhất trên toàn tấm thảm hoa Tây Bắc. Giống như một “hạt bụi vàng” của tác phẩm, không có tiếng sáo mùa xuân thì có lẽ tâm hồn Mị không bao giờ thức dậy được. Không có nó, cuộc sống Tây Bắc còn lại là gì? – Chắc chỉ còn lại “tiếng xập xình cúng ma” nhận mặt người vay nợ lãi hay làm nô lệ cho bọn chúa đất. Tiếng sáo dập dìu suốt đêm đã xua đi cái hoang lạnh, cái đói rách của núi rừng, cái âm u của cuộc sống nô lệ, và gọi về cái ấm áp, cái đa tình đáng yêu, chất nghệ sĩ của lòng người Tây bắc. Có tiếng sáo gọi bạn đầu làng, tiếng sáo vang vọng từ núi này sang núi nọ và “những chiếc váy hoa phơi trên những tảng đá xòe như con bướm sặc sỡ” núi rừng Tây bẳc trở nên thơ mộng, quyến rũ và say mê biết bao!
Ta như nghe được cả những tiếng reo vui náo nức của nhà văn khi mùa xuân đến được kìm nén trong nhiều câu văn: “Những đêm tình mùa xuân đã đến”… Ta như nghe được cả sự mời gọi thiết tha của người nghệ sĩ ấy trong từng dòng văn miêu tả tài hoa về tiếng sáo ấy, về không khí của những đêm xuân nồng nàn men rượu và dập dìu tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường, tiếng sáo văng vẳng đầu nương, vang vọng qua những vách núi thành âm điệu đặc trưng của nền văn hóa Tây Bắc. Tiếng sáo ấy cũng là tiếng lòng nồng nàn như rượu đêm xuân của nhà văn đối với núi rừng và đồng bào các dân tộc vùng rẻo cao Tây Bắc nói riêng, với đất nước Việt Nam nói chung. Tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân – tiếng sáo trong sáng, hồn nhiên mà tình tứ, réo rắt da diết, mà khỏe khoắn lạ thường ấy còn là sản phẩm của một sự am tường cặn kẽ, tinh thông về phong tục, lối sống của đồng bào rẻo cao, là sản phẩm của một ngòi bút tài hoa: văn như nhạc, như tranh, tải được cả màu sắc, hương vị, âm điệu, linh hồn của núi rừng Tây Bắc.
“Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”, một chi tiết nghệ thuật như thế đã đủ sức làm rường cột cho cả một tác phẩm, đánh dấu sự trưởng thành của chặng đường sáng tác, làm nên tầm cao, đóng góp riêng của nhà văn Tô Hoài cho nên văn học, văn hóa nước nhà. Nay nhà văn Tô Hoài đã đi xa nhưng chắc chắn tiếng sáo đêm tình mùa xuân của bản Mèo xa lắc vẫn vi vút, vẫn lửng lơ ám ảnh trong tâm trí bao thế hệ người đọc mọi miền đất nước về sức sống tiềm tàng mãnh liệt của những con người dân tộc nơi rẻo cao Tây Bắc thân thương.